Các phiên bản North_American_B-25_Mitchell

Chiếc B-25C MitchellChiếc B-25C/D Không lực Lục quân Hoa Kỳ. Lưu ý radar đời đầu (có thể chỉ thử nghiệm) được gắn trên mũi máy bayChiếc B-25JChiếc B-25J sau chiến tranhB-25Phiên bản B-25 đầu tiên được giao hàng. Nhu cầu cấp bách đến mức không có giai đoạn phát triển chiếc nguyên mẫu. Chín máy bay đầu tiên có góc nhị diện không đổi, nhưng do độ ổn định kém, cánh được thiết kế lại để góc nhị diện bằng không ở phần ngoài cánh. Có 24 chiếc được chế tạo.B-25APhiên bản B-25 được cải tiến để hoạt động ngoài chiến trường; được bổ sung thùng nhiên liệu tự hàn kín, vỏ giáp cho đội bay, và cải tiến vị trí súng máy đuôi. Không có thay đổi về trang bị vũ khí. Bị cho là lỗi thời và được đặt lại tên là RB-25A vào năm 1942. Có 40 chiếc được chế tạo.B-25BLoại bỏ vị trí súng máy đuôi; bổ sung thêm tháp súng lưng và bụng mỗi cái mang một cặp súng máy 12,7 mm (0,50 inch). Tháp súng bụng có thể thu vào được, nhưng vẫn làm tăng lực cản nên làm giảm tốc độ bay đường trường đến 48 km/h (30 mph). Có 23 chiếc được giao cho Không quân Hoàng gia Anh và được đặt tên Mitchell Mk I. Có 120 chiếc được chế tạo.B-25CPhiên bản B-25B được cải tiến: nâng cấp từ kiểu động cơ hình tròn Wright R-2600-9 sang kiểu R-2600-13; bổ sung các thiết bị làm tan băng và chống đóng băng; hoa tiêu có một cửa sổ bọc để ngắm; và vũ khí trước mũi được tăng lên hai súng máy 12,7 mm (0,50 inch) gồm một khẩu cố định và một khẩu linh hoạt. B-25C là phiên bản đầu tiên B-25 được sản xuất hằng loạt với số lượng nhiều; nó được sử dụng tại Anh Quốc dưới tên gọi Mitchell II, và tại Canada, Trung Quốc, Hà Lan, và Liên Xô. Có 1.625 chiếc được chế tạo.ZB-25CB-25DTương tự như phiên bản B-25C. Khác biệt duy nhất là B-25C được chế tạo tại Inglewood, California, trong khi B-25D được chế tạo tại Kansas City, Kansas. Bay lần đầu tiên vào ngày 3 tháng 1 năm 1942. Có 2.290 chiếc được chế tạo.ZB-25DXB-25EMột chiếc B-25C được cải biến để thử nghiệm thiết bị làm tan băng và chống đóng băng, trong đó khí nóng thoát ra từ động cơ được luân chuyển trong các buồng ở mép trước và sau của cánh và trên thân. Chiếc máy bay được thử nghiệm trong vòng gần hai năm bắt đầu từ năm 1942. Trong khi hệ thống này tỏ ra cực kỳ hiệu quả, đã không có kiểu sản xuất nào áp dụng nó cho đến khi Thế Chiến II. Nhiều máy bay động cơ cánh quạt ngày nay sử dụng hệ thống này của chiếc XB-25E. Có một chiếc được cải biến.ZXB-25EXB-25F-AMột chiếc B-25C được cải biến để thử nghiệm việc sử dụng các cuộn dây điện bọc làm tan băng gắn trên mép trước cánh và thân. Kết quả cho thấy hệ thống sử dụng khí nóng thử nghiệm trên chiếc XB-25E tỏ ra thực tế hơn. Có một chiếc được cải biến.XB-25GMột chiếc B-25C được cải biến có mũi bằng kính được thay bằng mũi kín mang hai súng máy 12,7 mm (0,50 inch) và một khẩu pháo M4 75 mm (2,95 inch), là vũ khí mạnh nhất từng được trang bị cho một máy bay ném bom Hoa Kỳ. Có một chiếc được cải biến.B-25GNhằm thỏa mãn nhu cầu về một kiểu máy bay tấn công mặt đất và càn quét, phiên bản B-25G được chế tạo sau thành công của chiếc nguyên mẫu XB-25G. Kiểu sản xuất hằng loạt được tăng cường thêm vỏ giáp và trữ lượng nhiên liệu nhiều hơn chiếc XB-25G. Một chiếc B-25G được chuyển cho người Anh, và họ đặt tên nó là Mitchell II giống như đã dùng cho phiên bản B-25C. Có 420 chiếc được chế tạo.B-25HPhiên bản B-25G cải tiến, bổ sung thêm hai súng máy 12,7 mm (0,50 inch) trước mũi và bốn khẩu trên các đế gắn vào thân, khẩu pháo hạng nặng M4 được thay bằng kiểu nhẹ hơn T13E1 cùng cỡ nòng 75 mm (2,95 inch). Có 1.000 chiếc được chế tạo, một chiếc cho đến nay vẫn còn bay được.B-25JPhiên bản B-25 sản xuất hằng loạt cuối cùng, thường được xem là sự pha trộn của hai phiên bản B-25C và B-25H. Nó có một mũi bằng kính, nhưng nhiều chiếc được giao đến các đơn vị lại được cải tiến để có mũi kín. Đa số trong 14 đến 18 khẩu súng máy của nó hướng ra phía trước dùng trong các phi vụ càn quét tấn công mặt đất. Có 316 chiếc được giao cho Không quân Hoàng gia Anh dưới tên gọi Mitchell III. Có 4.318 chiếc được chế tạo.CB-25JPhiên bản chuyên chở đa năng.VB-25JMột số chiếc B-25 được cải biến để sử dụng như máy bay chuyên chở nhân viên và khách VIP. Cả Henry H. ArnoldDwight D. Eisenhower đều sử dụng những chiếc B-25J được cải biến như là phương tiện chuyên chở cá nhân.

Các phiên bản huấn luyện

Một chiếc B-25 Mitchell đang bay trong một cuộc biểu diễn hàng không hiện đại.

Đa số các phiên bản của B-25 được sử dụng vào lúc nào đó như là máy bay huấn luyện.

TB-25DTên ban đầu là AT-24A (Advanced Trainer, Model 24, Version A). Phiên bản B-25D cải tiến để huấn luyện. Có tổng cộng 60 chiếc AT-24 được chế tạo.TB-25GTên ban đầu là AT-24B. Phiên bản B-25G cải tiến để huấn luyện.TB-25CTên ban đầu là AT-24C. Phiên bản B-25C cải tiến để huấn luyện.TB-25JTên ban đầu là AT-24D. Phiên bản B-25J cải tiến để huấn luyện. Có thêm 600 chiếc B-25J được cải tiến sau chiến tranh.TB-25KPhiên bản huấn luyện radar kiểm soát hỏa lực Hughes E1. Có 117 chiếc được chế tạo.TB-25LPhiên bản cải biến huấn luyện phi công Hayes. Có 90 chiếc được chế tạo.TB-25MPhiên bản huấn luyện radar kiểm soát hỏa lực Hughes E5. Có 40 chiếc được chế tạo.TB-25NPhiên bản cải biến huấn luyện phi công Hayes. Có 47 chiếc được chế tạo.

Các phiên bản Hải quân Hoa Kỳ

Chiếc B-25J-20 Mitchell "Duke of Brabant Air Force"PBJ-1CPhiên bản Hải quân tương tự như kiểu B-25C. Thường được trang bị radar tìm kiếm trên không dùng trong vai trò chống tàu ngầm.PBJ-1DPhiên bản Hải quân tương tự như kiểu B-25D. Khác biệt là chỉ có một khẩu súng máy M2 12,7 mm (0,50 inch) ở tháp súng đuôi và các vị trí súng bên sườn giống như phiên bản B-25H. Thường được trang bị radar tìm kiếm trên không dùng trong vai trò chống tàu ngầm.PBJ-1GTên Hải quân Mỹ đặt cho phiên bản B-25GPBJ-1HTên Hải quân Mỹ đặt cho phiên bản B-25HPBJ-1JTên Hải quân Mỹ đặt cho phiên bản B-25J-NC (khối sản xuất từ -1 đến -35) với những cải tiến về radio và các thiết bị khác. Thường được trang bị "súng hộp" và radar tìm kiếm trước mũi dùng trong vai trò chống tàu thủy/chống tàu ngầm.